Kháng
sinh Penicillin, chất chống dính, máy tạo nhịp tim,… là những khám phá
khoa học quan trọng của con người ra đời trong các hoàn cảnh vô cùng
“tự nhiên”.1. PenicillinPenicillin được xem là một trong những
phát minh nhờ vào “tai nạn nghề nghiệp” nổi tiếng nhất của thế kỉ XX.
Vào năm 1928, nhà khoa học Alexander Fleming đã quên làm sạch dụng cụ
nghiên cứu của mình trước khi ông đi nghỉ một vài ngày. Khi trở về,
Fleming thấy rất nhiều vi khuẩn và nấm mốc trên dụng cụ của mình. Tuy
nhiên, ông cũng nhận thấy có một số vùng mà vi khuẩn và nấm mốc không
phát triển. Năm 1940, các nhà khoa học tại trường Đại học Oxford đã
tách thành công penicillin và phát triển nó thành thuốc kháng sinh đầu
tiên của con người. Cho đến nay, Penicillin vẫn là loại kháng sinh được
sử dụng phổ biến và rộng rãi nhất.
2. Máy tạo nhịp timWilson Greatbatch, một kỹ sư người Mỹ
đã tình cờ tạo ra máy tạo nhịp tim trong một lần nhầm lẫn. Khi Wilson
đang cố gắng tạo ra một chiếc máy tạo dao động để ghi lại âm thanh của
nhịp tim thì ông đã treo sai điện trở. Tuy nhiên, Wilson vẫn ghi lại
được tiếng tim đập. Từ đó, ông dần chế tạo thành công máy tạo nhịp tim
dưới sự giúp đỡ của William Chardack. Thử nghiệm đầu tiên được tiến
hành và thành công vào năm 1959 đã đưa Wilson trở thành người đầu tiên
trên thế giới chế tạo được máy tạo nhịp tim.
3. Thuốc nhuộmVào năm 18 tuổi, trong một nỗ lực
nghiên cứu để chữa trị căn bệnh sốt rét, nhà hóa học William Perkin đã
sáng tạo ra một thứ không liên quan gì đến khoa học và một thứ cực kì
có ý nghĩa với khoa học. Đó là vào năm 1856, Perkin cố gắng để tạo ra
những mẫu kí sinh nhân tạo. Kết quả ông thu được là một dung dịch màu
đen. Khi quan sát chúng, Perkin đã nhận ra một màu sắc rất đẹp trong mớ
dung dịch màu đen đó. Và ông phát hiện ra rằng mình đã tạo ra thuốc
nhuộm tổng hợp đầu tiên.
Loại thuốc nhuộm này tốt hơn nhiều lần
so với thuốc nhuộm từ tự nhiên. Màu sắc sáng hơn, sống động hơn, không
bị phai hoặc mờ khi rửa. Phát hiện của ông cũng trở thành tiền đề cho
một nền khoa học mới.
Tuy nhiên, câu chuyện vẫn chưa kết thúc
ở đây. Paul Ehrlich, một nhà vi khuẩn học người Đức, người được Perkin
truyền cảm hứng đã từ thuốc nhuộm mà phát hiện ra các phương pháp miễn
dịch và hóa trị trong y học.
4. Phóng xạNăm 1896, nhà vật lí Henri Becquerel bị
thu hút bởi hai điều, đó là huỳnh quang tự nhiên và tia X. Ông đã tiến
hành một loạt các thí nghiệm để xem xét khả năng sản xuất đèn huỳnh
quang của các khoáng chất tự nhiên sau khi chúng được tách rời khỏi ánh
sáng mặt trời.
Tuy nhiên, Henri Becquerel đã tiến hành
thí nghiệm vào mùa đông và suốt một tuần liền, bầu trời u ám. Vì vậy,
ông đã để các thiết bị cùng với nhau trong một ngăn kéo và chờ đợi ngày
nắng. Đến một ngày nắng làm việc trở lại, Henri đã phát hiện ra rằng đá
uranium mà ông để trong ngăn kéo đã in dấu của nó lên một tấm ảnh mà
không tiếp xúc với ánh sáng mặt trời. Henri đã làm việc với Marie,
Pierre Curie và phát hiện ra đó là chất phóng xạ.
5. NhựaVào năm 1907, sen – lắc được sử dụng để
làm vật liệu cách nhiệt trong ngành công nghiệp điện tử. Do đó, ngành
công nghiệp này luôn phải bỏ ra những khoản chi lớn cho việc nhập khẩu
sen- lắc từ Đông Nam Á. Chính bởi vậy, nhà hóa học Leo Hendrik
Baekeland đã nghĩ rằng ông có thể kiếm được một nguồn lợi nhuận lớn nếu
sản xuất ra được một vật liệu mới thay thế cho sen – lắc.
Tuy nhiên, những thí nghiệm nghiên cứu
của ông lại đã tạo ra một vật liệu mà không thay đổi hình dạng dưới
nhiệt độ cao. Baekeland cho rằng nó có thể sử dụng trong việc làm đĩa
hát. Song, hơn cả những điều ông mong muốn, vật liệu mới nay nhanh
chóng xuất hiện trong một loạt các sản phẩm với hàng ngàn người sử
dụng. Và cho đến này, nhựa có thể được tìm thấy ở mọi nơi.
6. Sự lưu hóa cao suNhà khoa học Charles Goodyear đã dành
một thập kỉ trong cuộc đời của mình để tìm cách làm cho cao su sử dụng
một cách dễ dàng hơn và có khả năng chống nóng, lạnh. Tuy nhiên, những
nghiên cứu của ông đều thất bại. Cho đến một ngày, ông tình cờ đổ hỗn
hợp lưu huỳnh, cao su vào một lò nấu nóng. Dưới nhiệt độ cao, cao su
nóng chảy song không bị hủy hoại. Khi quá trình này kết thúc, Charles
Goodyear nhận thấy hỗn hợp đã đông cứng song vẫn còn có ích. Từ phát
hiện này của Charles Goodyear, rất nhiều các sản phẩm cao su lưu hóa đã
ra đời và được sử dụng ở khắp mọi nơi.
7. Teflon – Chất chống dínhNhà hóa học Roy Plunkett trong quá
trình nghiên cứu để tìm ra một dạng thức mới của CFC
(chlorofluorocarbon). Ông cho rằng nếu ông có được TFE pha trộn với
axit hydrochloric thì ông có thể sản xuất chất làm lạnh mà ông muốn. Vì
thế, Roy đã làm mát TFE, nén nó trong một cái hộp lưu trữ để ông có thể
sử dụng khi cần thiết.
Sau một thời gian, ông mở hộp cất giữ
TFE để pha trộn với axit hydrochloric thì không còn gì trong hộp cả.
Nhìn kĩ dưới đáy hộp ông phát hiện ra một lớp mỏng bột màu trắng. Ông
tiến hành thí nghiệm và nhận thấy rằng nó có khả năng chịu nhiệt tốt và
chống kết dính hiệu quả. Với khám phá này, Plunkett đã nhận được bằng
phát minh vào năm 1941. Loại chất mới được đặt tên là Teflon vào năm
1944.
8. Coca- colaCó rất nhiều thực phẩm đã được sáng chế
ra trong những trường hợp ngẫu nhiên nhưng có lẽ không loại thực phẩm
nào có lịch sử đặc biệt và bí mật như coca – cola.
Dược sĩ John Pemberton ở vùng Atlanta,
Mỹ trong một nỗ lực chữa đau đầu đã pha trộn các thành phần khác nhau
và tạo ra một thứ đồ uống. Và đồ uống này sau tám năm được bán trong
các hiệu thuốc đã trở thành loại nước được ưa chuộng trên khắp toàn
cầu. Cho đến nay, công thức pha chế đồ uống này vẫn là một bí mật.
9. Đường hóa họcVào năm 1879, nhà hóa học Constantin
Fahlberg đang nhiều thời gian nghiên cứu dẫn xuất nhựa than đá trong
công trình của giáo sư Ira Remsen. Khi ông trở về nhà ăn tối với vợ và
quên không rửa tay, ông đã nhận thấy vị ngọt khác lạ từ món cuốn hôm
đó. Ông hỏi vợ và bà bảo không hề cho thêm gì. Sau đó, ông phát hiện vị
ngọt đó đến từ tay mình.
Ngày hôm sau, ông đến phòng thí nghiệm
và tiếp tục nghiên cứu về điều này và khám phá ra đường hóa học - một
phát minh được xem là đột phá của loài người.